Vài vấn đề về đào tạo sau đại học ở nước ta

Công tác đào tạo sau đại học (SĐH) ở nước ta thời gian qua vẫn còn không ít hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra những hạn chế, bất cập, đồng thời đưa ra một số định hướng và giải pháp nhằm khắc phục các tồn tại, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo SĐH trong thời gian tới.

Trong những năm gần đây, các đơn vị đào tạo SĐH ở trong nước đã cung cấp cho xã hội một số lượng không ít các thạc sỹ (ThS) và tiến sỹ (TS). Đó là một trong những ưu điểm lớn. Ngoài không nhiều các luận văn, luận án có chất lượng cao thì có không ít số ThS và TS bị dư luận xã hội phàn nàn về trình độ của họ qua thực tế công tác. Chất lượng đào tạo SĐH phụ thuộc vào nhiều yếu tố. So với những năm trước đây, ở nhiều cơ sở đào tạo, đội ngũ giáo viên hướng dẫn có thể nói là đã đủ mạnh, các phòng thí nghiệm cũng không quá thiếu thốn, công tác quản lý đã vào quy củ hơn, kinh phí cấp cho hoạt động đào tạo SĐH cũng có tăng. Nhưng trên thực tế qua phản ánh của nhiều học viên, thì họ vẫn còn bị “hành” bởi quá nhiều thủ tục hành chính (chưa kể các hành vi “tiêu cực” mà họ không dám nói ra), học viên phải vay mượn quá nhiều tiền để làm phần thực nghiệm, nhất là đối với học viên các ngành công nghệ. Cho nên các học viên có xu hướng chung là “mai phục” để tìm kiếm cơ hội đi du học.

Nhiều học viên đã thực hiện được nguyện vọng đó bằng nguồn kinh phí của Nhà nước hoặc của các tổ chức nước ngoài. Đời sống và điều kiện học tập ở nước ngoài tốt hơn nhiều so với trong nước, bên cạnh đó, các giáo sư nước ngoài thường có sẵn các đề tài, đang cần nhân lực khoa học để triển khai. Nhiều học viên của ta đã biết tận dụng những cơ hội đó để học tập. Nhưng cũng không phải nhiều người đã làm việc tốt với tinh thần như vậy mà lại tìm cách xoay sở chỉ cốt kiếm được cái bằng đem về nước.

Không ít giáo sư nước ngoài đã chủ động tìm kiếm các học viên Việt Nam qua các hội nghị khoa học hoặc thông qua các giáo sư trong nước. Các giáo sư trong nước cũng đã giúp được nhiều người đi du học nhưng lại rất khó khăn để giữ chân được một vài học viên TS để có nhân lực triển khai những ý tưởng khoa học của mình...

                Từ một vài nét điểm qua về công tác đào tạo SĐH trên có thể đi đến một số nhận xét:

1. Cần xây dựng tư duy chuẩn xác hơn về công tác đào tạo SĐH. Nên hiểu bản chất của công tác đào tạo SĐH là xây dựng mạng lưới hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) được kích thích bằng bằng cấp. Trong các hoạt động KH&CN thì việc nghiên cứu khoa học có vai trò trọng yếu để tạo ra sức mạnh động lực của KH&CN phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mạng lưới này là hệ thống nòng cốt để phát triển KH&CN theo một chiến lược của Nhà nước. Việc thực hiện các đề tài/dự án trọng điểm nhằm tạo ra các sản phẩm cạnh tranh có hàm lượng khoa học ngày càng cao phải được xem là một nội dung quan trọng có liên quan trực tiếp đến hoạt động đào tạo SĐH (với trách nhiệm duy trì, phát huy, theo kịp các tiến bộ KH&CN của đối tượng nghiên cứu). Triển khai việc này chủ yếu là các thế hệ nghiên cứu sinh, học viên cao học có sự hướng dẫn của các giảng viên, nhà nghiên cứu.

Xây dựng mạng lưới cán bộ khoa học là mục tiêu cơ bản của công tác đào tạo SĐH với nội lực chủ yếu phải là từ trong nước. Cử học viên đi du học ở nước ngoài cũng phải có kế hoạch nhằm hỗ trợ cụ thể cho việc xây dựng trong nước mạng lưới này.

2. Để có thể đạt được sự hỗ trợ thiết thực đó phải có sự chỉ đạo chiến lược của cơ sở đào tạo SĐH cũng như từ tầm nhìn quốc gia cho tương lai không xa. Thực tế cũng có những trường hợp học viên SĐH được cử đi đào tạo đúng những nội dung mà trong nước đang cần nên đã phát huy được rất tốt, nâng được trình độ khoa học trong nước ở lĩnh vực được đào tạo lên tầm cao mới. Nhưng khá nhiều trường hợp đơn vị cử đi học cũng chẳng biết người đang đi học nước ngoài (ngay  cả bằng kinh phí Nhà nước) đang làm đề tài gì, sau này có phù hợp với thực tế trong nước hay không. Nếu không sớm tăng cường sự chỉ đạo từ trong nước thì e rằng việc gửi hàng vạn học viên SĐH đi đào tạo ở nước ngoài lại là việc xuất khẩu lao động có đào tạo mà phải tự bỏ tiền!

Hơn lúc nào hết, khi đã hội nhập kinh tế toàn cầu với sự cạnh tranh khốc liệt bằng sức mạnh của KH&CN thì chúng ta phải làm ngay việc “xốc lại” mạng lưới cán bộ KH&CN trong nước, kết hợp với việc bổ sung nâng cấp mạng lưới đó bằng sự hỗ trợ từ những học viên ở nước ngoài, kể cả khi họ còn đang theo học thành một “chiến dịch”, có bộ tư lệnh hẳn hoi. Muốn thế, trước hết phải có tư duy đổi mới, lấy nội lực là chủ đạo, tổ chức hệ thống đào tạo SĐH không vì bằng cấp, mà quan trọng hơn nhiều là xây dựng mạng lưới hoạt động KH&CN vững bền cho đất nước.

                3. Như vậy, về thực chất, đào tạo SĐH không đơn thuần là công tác đào tạo mà là việc tổ chức mạng lưới triển khai hoạt động KH&CN trong nước. Vì thế phải chỉ đạo sao cho đại bộ phận các luận án, luận văn SĐH phải gắn bó có tính hệ thống với định hướng hoạt động KH&CN của chuyên ngành đó. Ở ta, sự gắn bó cần thiết đó lại chưa thể hiện rõ nét. Một trong những nguyên nhân có thể là do nguồn kinh phí cho 2 loại công việc này lại nằm ở 2 Bộ riêng biệt.

                Trong số các tiêu chí để đánh giá, nghiệm thu đề tài KH&CN cấp nhà nước là hoạt động đào tạo SĐH. Yêu cầu đó là chính đáng nhưng cũng phải nhìn nhận những mặt còn tồn tại trong vấn đề này: thời gian thực hiện các đề tài thường từ 2 đến 3 năm - quá ngắn để hoàn thành một luận án TS; những phát hiện khoa học cần tiếp tục được nghiên cứu để cải tiến, nâng cấp thiết bị (hoặc ít ra là phù hợp với điều kiện cụ thể ở trong nước) thường xuất hiện vào giai đoạn kết thúc đề tài nhưng khi đó lại hết tiền, còn nguồn kinh phí dành cho nghiên cứu sinh lại do Bộ khác quản lý (mà để lấy được số kinh phí khá ít ỏi này lại phải qua các thủ tục rất rườm rà).

4. Chất lượng đào tạo SĐH còn bị tác động bởi thể chế sử dụng cán bộ sau khi tốt nghiệp. Khi có tấm bằng SĐH trong tay thì cũng có nhiều thuận lợi để “tăng lương, tiến chức” vì chúng ta còn quá coi trọng bằng cấp, xem nhẹ thực chất. Giá như tiêu chí đề bạt có yêu cầu rõ ràng về mức phải đạt được trong công việc mà người có bằng được giao thì chất lượng đào tạo chắc sẽ được nâng lên theo và nạn văn bằng dởm sẽ giảm rõ rệt.

                Một câu hỏi được đặt ra là tại sao ở nhiều vị trí cán bộ quản lý lại phải chọn TS, trong lúc phần năng lực “nghiên cứu” được đào tạo của TS sẽ không được phát huy tốt ở vị trí này. Trong thực tế, rất nhiều người chỉ tốt nghiệp đại học nhưng họ làm rất tốt công việc ở vị trí công tác của mình. Trong quá trình làm việc, tuy không qua một khóa học SĐH nào, nhưng họ là những người có tinh thần tự rèn luyện, rất biết cách học hỏi từ thực tiễn, từ kho tri thức vô cùng phong phú, ngay ở trên mạng internet... Tất nhiên, nếu được đào tạo có bài bản một cách chủ động thì chắc chắn họ sẽ trưởng thành nhanh hơn, toàn diện hơn, đỡ vất vả hơn. Vì thế, chúng ta nên học tập kinh nghiệm nhiều nước có hệ thống các khóa học “cập nhật kiến thức” và tổ chức thi để cấp chứng chỉ hành nghề” cho các kỹ sư, như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đang bắt đầu tiến hành theo cách thức của Hiệp hội các trường đại học kỹ thuật châu Á - Thái Bình dương, để rà soát chất lượng đào tạo của các trường đại học.

                5. Đào tạo “tổng công trình sư” (TCTS) là một dạng đặc biệt trong đào tạo SĐH. TCTS là những cán bộ làm công tác kỹ thuật hoặc quản lý, có kiến thức tổng hợp hệ thống, có chuyên môn sâu về một ngành và có tầm am hiểu rộng về các lĩnh vực có liên quan, có năng lực quản lý điều hành một hệ thống kinh tế - kỹ thuật cụ thể.

                Ở nhiều nước hầu như không có hệ thống đào tạo chính quy loại TCTS. Ở nước ta hiện nay lại đang rất cần nhiều TCTS để có khả năng nhận tổng thầu thi công các công trình lớn (lâu nay, các đơn vị trong nước hầu như chỉ là thầu phụ, làm công việc xây lắp, chiếm khoáng 20% tổng giá trị công trình). Điều này sẽ đem lại lợi ích rất lớn về kinh tế vì nếu có TCTS để nhận tổng thầu thì có thể giành lại 80% tổng giá trị các công trình đó. Vào những năm 2004-2006, tôi đã có đôi lần phát biểu, phân tích và đề xuất ở một vài hội nghị khoa học và trên báo chí về vấn đề đào tạo TCTS. Đồng thời, đã xây dựng bản dự án về đào tạo TCTS, trong đó trình bày các nội dung chủ yếu của chương trình đào tạo, cách thức xây dựng đội ngũ giáo viên, tính khả thi và các bước triển khai... Đào tạo TCTS không đơn thuần là công việc đào tạo mà là để triển khai một “mặt trận” kinh tế - xã hội, nên công việc này cần phải đặt dưới sự chỉ đạo của Nhà nước.

                Để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác đào tạo SĐH cho giai đoạn tới, xin đề xuất một số vấn đề:

Thứ nhất, nên hiểu bản chất của công tác đào tạo SĐH là nhằm xây dựng mạng lưới hoạt động KH&CN trong nước.

Thứ hai, phát huy tinh thần tự cường xây dựng nội lực là chính, có chiến lược trong việc chọn người đi học SĐH ở nước ngoài nhằm hỗ trợ cho việc tăng cường mạng lưới hoạt động KH&CN ở trong nước.

Thứ ba, có biện pháp gắn kết cụ thể công tác đào tạo SĐH với việc triển khai các đề tài/dự án khoa học trọng điểm.

Thứ tư, đầu tư mạnh mẽ hơn cho đào tạo SĐH chính là biện pháp hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng giảng dạy đại học, vì chất lượng đào tạo phụ thuộc nhiều nhất vào người thày và có nghiên cứu khoa học mới giảng dạy đại học.

Thứ năm, đối với các ngành KHCN nên bổ sung vào mô hình đào tạo SĐH hình thức thi nâng cấp cho kỹ sư sau các khóa học cập nhật kiến thức theo từng nhóm ngành chuyên môn và chính quy hóa việc thi để được cấp “chứng chỉ hành nghề” cho kỹ sư theo chuyên ngành.

Thứ sáu, nên quan tâm đến việc tự tổ chức trong nước đào tạo TCTS để đáp nhu cầu làm chủ các công trình lớn của đất nước, tức là có thể làm tổng thầu thay vì làm thầu phụ cho nước ngoài ngay trên đất nước của mình.

 

                                                GS.TSKH.NGND Nguyễn Thiện Phúc